Sông Lô, sóng ngàn Việt Bắc bãi dài ngô lau núi rừng âm u
Thu ru bến sóng vàng từng nhà mờ biếc chìm một màu khói thu
Sông Lô, sóng ngàn kháng chiến cháy bờ lau thưa đã tàn thôn trang
Ai qua bến nắng hồng lặng nhìn dòng nước sông Lô xưa
Tôi nhìn vào bản đồ, sông Lô là một đường xanh thẫm chảy vào Việt Nam ở cửa khẩu Thanh Thủy, chạy dọc theo quốc lộ số 2 từ Hà Giang xuống Tuyên Quang, thành ranh giới tự nhiên giữa hai tỉnh Vĩnh Phúc, Phú Thọ, và cuối cùng đổ vào sông Hồng gần cầu Việt Trì.
Chuyến này tôi sẽ lên Hà Giang, đến Thanh Thủy, nơi bắt nguồn con sông Lô ở đất Việt. Từ đó tôi sẽ xuôi theo dòng về tận cầu Việt Trì, ngã 3 sông. Nghe Trường ca Sông Lô đã nhiều, giờ tôi muốn được tận mắt nhìn sông Lô, tôi muốn bánh xe của mình lăn dọc từ đầu đến tận cuối của dòng sông Lô.
Hà Nội bây giờ mở rộng, chúng tôi mất cả nửa ngày đường mới tới được cầu Trung Hà, cửa ngõ lên phía bắc thủ đô. Qua cầu Trung Hà, chúng tôi tiến vào vùng trung du. Đường đi uốn lượn lên xuống hình sin làm tôi nhớ tới câu thơ:
Bên tả sông Hồng
Bên hữu sông Lô
Đồi bát úp nhấp nhô
Nên gọi là đất giữa... (1)
Cái tỉnh Phú Thọ này có 3 con sông thì cả 3 đều vào trong một câu hát: “Em ở sông Hồng, sông Lô hay sông Chảy...” (2). Ở thị trấn Đoan Hùng, nơi sông Lô giao sông Chảy, ngay chính giữa ngã 3 sông đó, nơi sách lịch sử ghi xảy ra trận sông Lô, nguồn cảm hứng của Trường ca sông Lô, có một cái tượng đài Chiến thắng sông Lô.
Lúc đó là 4h chiều, chúng tôi ghé tượng đài, tôi bắt đầu nhìn thấy sông Lô. Tượng đài nằm trên đồi, vắng hoe. Nhà trưng bày nằm trong khuôn viên cũng vắng hoe nốt, vắng cả hiện vật lẫn người. Tôi đứng ở chân tượng đài nhìn xuống ngã 3 sông. Mùa này nước cạn, sông Chảy như một con suối nhỏ lặng lẽ chảy vào sông Lô. Mặt sông Lô thưa thớt, vài con tàu khai thác cát. Tiếng máy tàu lạch phạch vẳng lên đồi.
Tôi đã từng qua sông Bạch Đằng, con sông rộng mênh mông và hùng vĩ như thế mới có được những trận Bạch Đằng lịch sử. Không hiểu ngày xưa người ta đánh nhau như thế nào với con sông Lô đậu vài cái tàu đã chật như dòng sông trước mắt tôi, để mà có được trận sông Lô trên bài hát oai hùng “reo mừng vui trên sóng nước biếc, trôi đầy sông bao đám xác thù”?
Người ta bảo Văn Cao không được tận mắt chứng kiến trận đánh, ông đến sông Lô khi đám khói chiến trận đã tàn. Cái này thì tôi hiểu. Khi còn chưa giải phóng Hà Nội, trí tưởng tượng của người nghệ sĩ đã tưởng tượng ra “trùng trùng quân đi như sóng, lớp lớp đoàn quân tiến về”, thì một trận sông Lô có sá gì.
Tôi đã từng qua sông Bạch Đằng, con sông rộng mênh mông và hùng vĩ như thế mới có được những trận Bạch Đằng lịch sử. Không hiểu ngày xưa người ta đánh nhau như thế nào với con sông Lô đậu vài cái tàu đã chật như dòng sông trước mắt tôi, để mà có được trận sông Lô trên bài hát oai hùng “reo mừng vui trên sóng nước biếc, trôi đầy sông bao đám xác thù”?
Người ta bảo Văn Cao không được tận mắt chứng kiến trận đánh, ông đến sông Lô khi đám khói chiến trận đã tàn. Cái này thì tôi hiểu. Khi còn chưa giải phóng Hà Nội, trí tưởng tượng của người nghệ sĩ đã tưởng tượng ra “trùng trùng quân đi như sóng, lớp lớp đoàn quân tiến về”, thì một trận sông Lô có sá gì.
Từ Đoan Hùng đến thị xã Hà Giang còn gần 200 cây số nữa. Chúng tôi cố gắng đến được Hà Giang tối nay để sáng mai lên cửa khẩu Thanh Thủy. Qua Tuyên Quang, kể từ đây, đường của chúng tôi đi chạy dọc theo dòng sông Lô. Mùa đông, đường núi, trời tối xuống rất nhanh. Chúng tôi cắm cúi phi, dù không nhìn thấy gì nhưng tôi biết dòng sông Lô vẫn đang chảy bên cạnh chúng tôi, ngay phía dưới vách núi kia.
Bỗng “bụp” 1 tiếng, xe lảo đảo, nổ lốp. Chúng tôi dừng xe lại, phía trước tối om, phía sau tối om, một tiếng dế kêu cũng không có. Cặm cụi dắt bộ một hồi, chúng tôi nhìn thấy nhà Ủy ban xã vẫn còn sáng đèn, liền hò nhau đẩy xe vào với ý định xin tá túc lại đây đêm nay. Hai công chức còn khá trẻ chạy ra. Nhìn thấy cái lốp xe xẹp lép, một anh nhanh nhẹn nhiệt tình: “Để tôi gọi thợ”. Anh thứ hai, phó bí thư xã, mời chúng tôi vào phòng uống chén nước.
Rót một chén nước chè, anh phó bí thư quay sang tôi: “Anh biết bài Sông Lô chiều cuối năm chứ? Sông Lô chỉ hiền hòa lúc chiều cuối năm thôi. Ngày xưa, có hôm đi ngủ trời mưa lâm thâm, 3h sáng dậy thò chân tõm xuống nước. Bây giờ nhiều cầu rồi, trước toàn phải đi đò ngang, nhiều người đi đò trả bằng thóc, cuối năm lại mang thóc ra trả tiền đò cả năm. Chỉ cách đây vài năm thôi, giờ này các bến đò vẫn còn tấp nập lắm, người ta chở cam đi bán.”
Cam sành Hà Giang cũng có tiếng, cũng đã thành thương hiệu. Hà Nội vẫn thường hỏi nhau cách phân biệt cam Hà Giang và cam Trung Quốc. Nhưng mất mấy năm cam Hà Giang không bán được vì hình như người ta không phân biệt nổi cam Hà Giang với cam Trung Quốc cả về hình thức lẫn mức độ chất bảo quản. Hà Giang đang đặt chiến lược khôi phục lại uy tín cho cây cam. Tôi nghe quảng cáo tỉnh sẽ làm một cốc nước cam sành to nhất Việt Nam để quảng bá cho cam Hà Giang.
Anh chàng sửa xe thò cổ vào: “Xe anh xong rồi”.
Chúng tôi lại lên đường. Đường đi vẫn tối om, chỉ một vài lán bán cam lác đác bắt gặp ven đường là còn có ánh đèn. Tối đó chúng tôi nghỉ lại khu suối nước khoáng Thanh Hà, huyện Vị Xuyên, tỉnh Hà Giang.
Sáng hôm sau, chúng tôi quyết định thay lốp. Trong lúc chờ chị vợ anh chàng sửa xe phải đi vào tận trong làng cách gần 20 cây số để lấy được chiếc lốp vừa cỡ xe, tôi ra ngồi uống trà. Hà Giang có trà Shan tuyết rất ngon. Cây chè Shan tuyết toàn cổ thụ, sống trên núi cao, phơi sương bao năm, khi sao ra cánh trà bàng bạc như tuyết phủ, có lẽ vì thế nên người ta gọi là trà tuyết. Trong bài “tỉnh ca” của Hà Giang có câu “Đây chè quê hương vui những ai hẹn hò” chính là trà Shan tuyết này. Huyện Vị Xuyên tôi đang ngồi là một trong những nơi trồng chè Shan tuyết tốt nhất Hà Giang. Tôi liền hỏi một bác lớn tuổi đang pha nước:
- Trà tuyết đây hả bác?
- Không, trà Thái Nguyên thôi
- Trà tuyết hả, đợi tí - Anh chàng sửa xe xen vào rồi chạy vào nhà, trở ra với túm trà đưa tôi.
Tôi đổ ấm trà cũ đi, tráng ấm chén thật cẩn thận, dốc những cánh trà pha màu bạc vào trong ấm, rót một tuần trà ra những chiếc cốc thủy tinh. Bác già nhìn chén trà nước xanh ngăn ngắt gật gù: “Trà tốt, nước tốt. Ở chân núi sát sông Lô bên kia, có mạch nước ngầm, pha trà ngon lắm, cả vùng này đều ra đấy lấy về”.
Tôi được nghe kể câu chuyện, một người Hà Giang mang chè tuyết tặng bạn xách theo cả nước ở vùng cao mang xuống tặng kèm. Họ bảo thành phố nước máy có clo, pha vào hỏng hết vị trà. Có khác gì cụ Sáu xin nước giếng chùa trong Vang bóng một thời của Nguyễn Tuân. Có phải vì thế không mà trà tuyết tôi mua ở Hà Nội có đắt mấy pha nước vẫn đỏ quạch chứ không xanh ngắt như chén trà ở một quán sửa xe bình thường ven đường sông Lô huyện Vị Xuyên này.
Tôi được nghe kể câu chuyện, một người Hà Giang mang chè tuyết tặng bạn xách theo cả nước ở vùng cao mang xuống tặng kèm. Họ bảo thành phố nước máy có clo, pha vào hỏng hết vị trà. Có khác gì cụ Sáu xin nước giếng chùa trong Vang bóng một thời của Nguyễn Tuân. Có phải vì thế không mà trà tuyết tôi mua ở Hà Nội có đắt mấy pha nước vẫn đỏ quạch chứ không xanh ngắt như chén trà ở một quán sửa xe bình thường ven đường sông Lô huyện Vị Xuyên này.
Thay lốp xong, chúng tôi lại tiếp tục lên đường, từ đây đến Hà Giang cũng không còn xa nữa. Bây giờ trời sáng, tôi nhìn rõ con sông Lô chảy ngược ngay bên đường. Sông Lô mùa này không phải mùa nước, lòng sông có đoạn cạn trơ đáy cảm giác có thể lội bộ được qua, đúng như câu ca dao kháng chiến treo ở Tượng đài hôm qua:
Việt Bắc có con sông Lô
Mùa mưa ngập bến, mùa khô cạn dòng
Vô số tàu cát đậu san sát chạy dọc lòng sông. Suốt từ lúc gặp sông Lô đến giờ, chỗ nào nhìn thấy sông, chỗ đó có tàu khai thác cát, thi nhau băm vằm sông Lô. Duyệt qua “hạm đội” tàu cát đó, chúng tôi tới Hà Giang, chạy theo dòng sông đi cửa khẩu Thanh Thủy.
Cửa khẩu Thanh Thủy, nơi bắt đầu sông Lô của Việt Nam. Hiệp định biên giới với Trung Quốc đã hoàn tất, Việt Nam và Trung Quốc chia đôi con sông Lô bằng cột mốc số 261. Ở đầu sông Lô, nhìn dòng nước lơ thơ chảy vào lãnh thổ Việt Nam, tôi buột miệng: “Nước cạn quá nhỉ!”. Anh biên phòng cười: “Mùa này nước cạn, nhưng ở bên kia, Trung Quốc xây thủy điện rồi, mùa mưa nước cũng chẳng lớn đâu”. Mùa mưa nước cũng không lớn, vậy là câu ca dao kia không bao giờ còn “mùa mưa ngập bến” nữa.
Đã lên đến đầu sông Lô, chúng tôi xuôi dòng trở về, hết Hà Giang, xuống Tuyên Quang. Chúng tôi ăn trưa ở đây. Dân câu cá nói sông Lô có nhiều cá ngon, nhất là cá chiên. Cá chiên thuộc họ cá da trơn, dữ, to, ít xương, thịt rất chắc. Dân ở đây nói sông Lô đã từng bắt được những con cá chiên nặng tới năm chục cân.
Dưới chân cầu Nông Tiến sừng sững giữa thị xã Tuyên Quang, nhà hàng nổi san sát bờ sông, chúng tôi ghé vào một quán gọi cá chiên. Bàn bên một gia đình cũng đang ăn cá chiên. Ông bố phương phi cao giọng giữa mâm: “Tranh thủ mà ăn đi, sắp chẳng còn cá để ăn nữa đâu. Sông Lô thì toàn tàu cát, thêm cái thủy điện Na Hang trên sông Gâm nữa, chẳng còn cá mà ăn nữa đâu”.
Dưới chân cầu Nông Tiến sừng sững giữa thị xã Tuyên Quang, nhà hàng nổi san sát bờ sông, chúng tôi ghé vào một quán gọi cá chiên. Bàn bên một gia đình cũng đang ăn cá chiên. Ông bố phương phi cao giọng giữa mâm: “Tranh thủ mà ăn đi, sắp chẳng còn cá để ăn nữa đâu. Sông Lô thì toàn tàu cát, thêm cái thủy điện Na Hang trên sông Gâm nữa, chẳng còn cá mà ăn nữa đâu”.
Nhìn đoàn thuyền bên bờ sông bên kia, tôi hỏi chị chủ quán: “Kia là thuyền chài hả chị?”
- “Không, nhà người ta đấy, dân lao động không có tiền làm nhà nên kéo nhau xuống sống ở sông. Cá to bây giờ toàn đưa từ sông Gâm về, sông Lô chỉ còn mấy người đánh “kích” lẻ tẻ thôi”.
Tôi thò đầu hỏi vọng một anh chàng đang thò 2 chiếc kích điện dưới lòng sông lừ lừ trôi thuyền đến: “Cá gì thế anh?”
- “Được mấy con trôi, con chày”
Làm gì còn “ta vui khoang cá đầy, tay ta tay dân chài xuôi ngược dòng sông Lô” của Văn Cao.
Ngồi bên nhà nổi, tôi nhìn từng đàn vỏ chai rượu những quán nhậu đầu nguồn thả xuống đang lờ lững trôi về xuôi mà nghĩ, chỗ này đã từng “trôi đầy sông bao đám xác thù”.
Tôi theo dòng Lô đi qua bao tỉnh, nhưng chẳng tỉnh nào có một con đường gợi nhớ Văn Cao. Nếu là tôi, tôi sẽ thay ngay con đường Chiến thắng sông Lô nằm bên dòng sông Lô của tỉnh Tuyên Quang này bằng đường Trường ca sông Lô, oai hùng hơn nhiều.
Có lần, tôi hỏi bạn tôi, một người đã từng mòn chân Âu Á, rằng hình ảnh nào hiện lên khi nhắc tới sông Lô. Bạn tôi trả lời: “Nói thật nhé, tớ chẳng biết gì về sông Lô, chỉ biết có một bài Trường ca sông Lô và một câu thơ: Nắng chói sông Lô hò ô tiếng hát, Chuyến phà rào rạt bến nước Bình Ca”.
Có lần, tôi hỏi bạn tôi, một người đã từng mòn chân Âu Á, rằng hình ảnh nào hiện lên khi nhắc tới sông Lô. Bạn tôi trả lời: “Nói thật nhé, tớ chẳng biết gì về sông Lô, chỉ biết có một bài Trường ca sông Lô và một câu thơ: Nắng chói sông Lô hò ô tiếng hát, Chuyến phà rào rạt bến nước Bình Ca”.
Hôm nay, khi tôi đến, nắng vẫn chói chang, nhưng bến Bình Ca giờ đã thành cầu, bến nước không còn, chân cầu là khu công nghiệp cảng An Hòa, thành phố Tuyên Quang. Đường vắng tanh, và tất nhiên là không có ai hò ô tiếng hát. Đứng trên cầu nhìn xuống, sông Lô lặng lẽ trôi giữa 2 bờ vắng lặng một bên bãi cỏ xanh rì, một bên nhà xưởng thưa thớt.
Tôi đâm vào con đường đầy cát tả ngạn sông Lô, nơi đây là địa phận huyện Sông Lô, một huyện mới thành lập của tỉnh Vĩnh Phúc. Không biết có phải họ tự hào về dòng sông Lô hay chỉ đơn giản huyện này nằm bên bờ sông Lô mà lấy tên như thế. Huyện thành lập mới khoảng 1 năm, cơ sở vật chất chưa có gì, khắp nơi đang rộn ràng xây dựng. Vậy là hơn 60 năm kể từ câu hát “chí kiến thiết, bên sông Lô đắp nhà”, bên sông Lô cũng đã đắp nhà.
Bác thợ xây đang tu bổ chùa Kim Tôn cạnh dòng sông ngừng tay hỏi tôi: “Bài Trường ca sông Lô đó, giờ còn nổi tiếng không anh nhỉ?”.
Bác thợ xây đang tu bổ chùa Kim Tôn cạnh dòng sông ngừng tay hỏi tôi: “Bài Trường ca sông Lô đó, giờ còn nổi tiếng không anh nhỉ?”.
Còn, còn chứ, còn nổi tiếng lắm chứ, chẳng phải tôi vì bài hát đó mà đang đi dọc dòng sông đây hay sao?
Trời đã ngả về chiều, tôi đến bến phà Then. Bến phà lặng lẽ vài cái xe máy dựng trước quán cóc trên dốc xuống phà. Em gái bên cạnh rút điện thoại gọi người yêu: “Anh chuẩn bị đón em nhé, em đang ở bến Then”. Bến Then, tôi lẩm nhẩm: “Vui hát ca hòa vui hát ca hòa dân buông lưới, Phan Lương vui bóng thuyền, lều dựng lên ven sông, bóng người sầm uất bến Then”.
Cầu Việt Trì kia rồi. Tôi chui dưới chân cầu rẽ đi Bạch Hạc, bổ ra đê, lần mò tới ngã 3 sông, nơi sông Lô “xuôi quanh co về”, đổ vào sông Hồng “hòa mạch cùng với xuôi”. Dòng sông Lô đến đây là hết.
Tôi đã đi đến cuối dòng sông, một dòng sông không như tôi đã tưởng tượng, dễ dàng làm thất vọng những người từng nghe bài hát muốn đi tìm một dòng sông “mênh mông như bát ngát hát” với “bao rừng thu như bát ngát cười” như tôi. Sông Lô của Việt Nam chỉ là một dòng sông nhỏ. Nhưng Sông Lô của Văn Cao thì cuồn cuộn chảy hùng vĩ như đoàn quân thời chinh chiến đã từng ca: “Đây Volga, đây Dương Tử, đây sông Lô...”. Người ta sẽ còn nhắc đến Sông Lô vì tài năng của Văn Cao chứ không phải vì cái gì khác. Và tôi không phải là người duy nhất sẽ vì bài hát mà đi dọc dòng sông, đi để được qua bến nắng hồng lặng nhìn dòng nước sông Lô xưa. Đứng trước điểm tận cùng của dòng Lô, tôi thầm cất cao lên tiếng hát:
Dòng sông Lô... ô... trôi...
Dòng sông Lô...ô... trôi...
--------------------------------
1: Quê tôi - thơ Đỗ Minh Chi
2: Lời bài hát Nổi trống lên rừng núi ơi - Hoàng Vân
Các đoạn in nghiêng là lời bài hát Sông Lô của Văn Cao